TRANH LỤA VÀ HỘI HOẠ VIỆT NAM

     Theo sử ghi, nghề dệt lụa của Việt Nam đã phát triển khá cao từ thời Lý. Dân dùng lụa nộp thuế, vua ban lụa làm lương bổng, cống nạp ra ngoài. Nhân dân tự làm canh cửi, dệt lụa để may mặc, trang trí trong nhà. Nhiều nhà tự vẽ chân dung các danh thần, danh tướng để thờ cúng. Nhiều chùa có vẽ tranh lụa kể truyện Phật giáo (Quan Âm, Thích Ca, La Hán, Bồ Tát, Thập Điện...) hoặc để trang trí hành lang.

     Tranh lụa xưa còn để lại đến nay quá ít ỏi. Các đời vua Lý, Trần xưa đều có sai vẽ tranh các nhà nho có Công củng cố chế độ phong kiến để thờ ở Văn Miếu vào những năm 1070 vào 1253 (gồm chân dung 72 người học trò xuất sắc của Khổng Tử). Các vua Trần Nhân Tông và Minh Tông đều có ban tranh chân dung, hoặc vẽ chân dung vào sách cho các trung thần và nghĩa sĩ có công với nước, chống giặc ngoại xâm.

     Như thượng hoàng Trần Nghệ Tông ban tranh Tứ phụ cho Hồ Quý Ly (1394) với ngụ ý khuyên Hồ Quý Ly giúp vua Trần còn nhỏ tuổi cũng như các trung thần xưa đã giúp ấu chúa.

     Về tranh lụa xưa, chúng ta còn chân dung Nguyễn Trãi (Bảo tàng Lịch sử Việt Nam), chân dung Phùng Khắc Khoan (nhà thờ Trạng Bùng, Thạch Thất), chân dung Quang Trung giả (họa sĩ Trung Quốc vẽ, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam), chân dung bốn danh sĩ dòng họ Phan Huy trải qua bốn đời tiếp nối: Phan Huy Cẩn, Phan Huy Ích, Phan Huy Thục, Phan Huy Vinh, chân dung Nguyễn Văn Siêu (lưu trữ tại Sở Văn hóa Hà Nội). Một số tranh khác ở Bảo tàng MTVN mới sưu tầm gần đây: Ông Nghè vinh quy, Tiếp sứ thần các nước. Ngoài ra còn có một số tranh chủ, tranh thờ, tranh chim hoa ở các nhà tư. Chân dung các danh nhân xưa thường đã bị mất bản gốc.

     Bản còn lại có lẽ chỉ là sao chép, vẽ lại. Nhưng cũng từ đấy, tôi thấy có hai lối về khác nhau. Chân dung Nguyễn Trãi vẽ theo nét cách điệu, màu tế nhị, có hoà sắc điêu luyện, nhiều đường cong có suy tính theo những công thức nhất định. Màu vẽ nhuyễn vào thớ lụa, kỹ thuật từng trải mượt mà. Kiểu thức này thiên về trang trí, giống như nét cách điệu rồng, phượng, hoa lá, muông thú, ở chùa Đậu (chùa Pháp Vũ, Thường Tín). Chân dung Phùng Khắc Khoan vẽ trên lụa khổ rộng (khoảng 1,50m x 2,50m). Phong cách này khác hẳn, nét vẽ khoẻ, tả thực, sắc mặt đen giống thần thái ông Trạng Bùng theo như con cháu kể lại. Màu sắc mộc mạc, đặt dày xốp, tự nhiên như yêu cầu của hiện thực. Dùng màu thuốc cái, son, mực nho, điệp. Chất lụa hiện ra thưa, thoải mái không cố định phô trương lối vẽ. Phía sau tranh có quét một lần Sơn ta( giai đoạn sau) làm bức lụa giòn gãy. Đấy là phong cách dân gian, gần gũi lối vẽ của người thợ thủ công - nông dân, ít có tiếp xúc với kỹ thuật bên ngoài. Những nét vẽ chân dung Trạng Bùng đi cùng một nhịp với nét chạm khắc gỗ ở đình Tây Đằng, chùa Tây Phương, chùa Thầy. Xem bức chân dung vẽ lụa Trạng Bùng, tôi có cảm giác kỳ thú như xem nét vẽ Đông Hồ. Cách nhìn, nét vẽ, kỹ thuật của người thợ thủ công dính liền với nông nghiệp. Cách nhìn đôn hậu ở nét bút, dày dặn ở mảng màu. Từ nguyên liệu để vẽ, nét vẽ, cách dùng mảng màu, dụng cụ để vẽ, khắc cũng khác những nghệ nhân chuyên nghiệp đã sinh sống ở thành thị (như nghệ nhân vẽ Hàng Nón, Hàng Trống).

     Hồn nhiên, khoẻ mạnh, “ăn chắc mặc bền" là nét vẽ của nông dân làm nghệ thuật. Bóng bấy, dùng đậm nhạt, nhiều nét, gia giảm nhiều màu sắc là đặc trưng của nghệ nhân vẽ ở thành thị.

     Như vậy, ta thấy rằng vẽ lụa xưa không phải chỉ có một phong cách. Có thể nói mỗi địa phương, mỗi phường thợ, mỗi giai đoạn lịch sử đều có kiểu thức sáng tạo nghệ thuật riêng trên những nét chung về truyền thống dân tộc. Nếu chúng ta quan sát kỹ về kiến trúc, điêu khắc, mỹ nghệ từ chùa Tây Phương (Thạch Thất) đến chùa Bút Tháp (Thuận Thành), từ Hà Tây sang Hà Bắc, chúng ta càng thấy sự khác biệt về kiểu thức tạo hình.

     Tranh lụa xưa còn lại quá ít, nhưng tìm đúng được một tác phẩm cũ vẫn gây cho tôi những cảm hứng thẩm mỹ sâu sắc. Xem tranh cũ thúc đẩy tôi suy nghĩ đến nguồn gốc và tìm hiểu chân giá trị của nghệ thuật đã qua, hào hứng như được nghe lại những điệu dân ca truyền thống.

     Chúng ta đều thấy từ thế kỷ XIX, nghệ thuật phương Tây đã hướng về phương Đông qua châu Phi và Cận Đông. Delacroix vẽ ở Maroc, Gauguin xây dựng sự nghiệp ở Tahiti, Van Gogh chép tranh Nhật Bản, Matisse tìm đến thảm màu Ba-tư, rồi thời đại Picasso đến với mặt lạ và điêu khắc châu Phi... Bản chất tạo hình hàn lâm chủ nghĩa châu Âu đã quá mòn rỗng, lớp nghệ sĩ mới phải làm trẻ lại nghệ thuật của họ, đi tìm nguồn hứng và đã thấy suối mát ở các thể loại nghệ thuật dân gian phương Đông. Họ thiếu thốn cái vị tươi trẻ, đẹp thô sơ như xưa kia, họ đã thiếu gia vị hồ tiêu và hương liệu như xạ, như trầm... Ở Hà Nội, những nhà bán đồ cổ và tranh của Pháp như Passignat, La Perle, mụ đầm Arquin đi lùng đồ cổ: đỏ đồng, gốm, tranh và tượng cổ để bán hoặc buôn cho các hãng tư bản Ogoliastro của Đức và Shell của Mỹ để xuất cảng ra ngoài chủ yếu sang Pháp, Mỹ, Đức. Họ hay mua tranh lụa và thuốc nước có thị hiếu là phương Đông. Họ cần tranh mang tính cách dân tộc hay phong cảnh sám uất và xanh rờn của những miền nhiệt đới ấm xa xôi. Thị trường rất cần tranh lụa, V.Tardieu - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Mỹ thuật lúc bấy giờ, muốn học trò của mình tiếp thu nghệ thuật này ở tranh cổ Trung Quốc và Nhật Bản, Ông đem một số tranh lụa ở Vân Nam về để sinh viên nghiên cứu. Lúc này, phương Tây đang ra sức nghiên cứu nghệ thuật Đông Dương, Nghệ thuật Khơme, Chăm vá Đông Sơn đã đem lại tiếng tăm và tiền bạc cho một số học giả, viện học thuật hay dân buôn. Phương Đông có một nền văn hóa cổ cao đẹp khác hẳn Ai Cập, Hy Lạp mà họ thường sùng bái. Ở đây, họ có thể tìm thấy cái gì mới hơn, tưới mát được dòng suối Hy Lạp đang cạn dần.

     Trong trường hợp ấy, đi tìm phương Đông xa xôi chân chất, có cái đẹp kỳ ảo lạ lùng của những dân tộc trẻ là con đường của những nhà sáng tác và nghiên cứu nghệ thuật châu Âu. Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương lúc đó có nhiều thác bản về nghệ thuật Việt Nam, có nhiều sách về hội họa Trung Quốc, Nhật Bản, về nghệ thuật trang trí và Mỹ nghệ phương Đông và nhiều tạp chí nghệ thuật hiện đại của châu Âu và Nhật Bản. Nghệ thuật phương Đông là thị hiếu quan trọng trên thị trường sau Thế chiến I, kết hợp với dịp khai thác và vơ vét của cải thuộc địa. Nhưng theo quy luật La Grèce conquise conquit son rude conquérant, các nghệ thuật phương Đông (Khơme, Việt Nam, Chăm, Indonesia, Trung Quốc) đã chinh phục các bảo tàng phương Tây về mặt văn hóa nghệ thuật cổ cũng như nghệ thuật Đông Sơn đã làm rung động giới khảo cổ châu Âu.

     Trong trào lưu văn hóa nghệ thuật như vậy, ở Triển lãm thuộc địa 1931, tranh lụa Việt Nam ra mắt công chúng châu Âu, minh chứng rằng nghệ thuật hội họa Việt Nam vượt xa ý muốn của thực dân Pháp cùng với tranh dân gian, công chúng châu Âu đã biết có một nghệ thuật vẽ ở Việt Nam qua tranh lụa với những tác phẩm của Nguyễn Phan Chánh, Thang Trần Phềnh, Nguyễn Nam Sơn, Tô Ngọc Vân. Vào những năm 1928- 1929, Nguyễn Phan Chánh bắt đầu nghiên cứu về lụa. Lối vẽ của hoạ sĩ dựa vào kỹ thuật tả thực châu Âu về hình, nhưng vẫn giữ lấy phong cách bố cục, bút pháp và hòa sắc phương Đông, lấy sinh hoạt và phong cảnh đất nước làm để tài sáng tác. Nếu chỉ xem tranh ở để tài không thôi thì chưa thấy hết được giá trị nghệ thuật - những tác phẩm lụa đầu tiên của thời kỳ hiện đại, trước Cách mạng tháng Tám. Chơi ô ăn quan, Bữa cơm, Lên đồng, Xem tướng, Em bé chơi chim, Vo gạo (Nguyễn Phan Chánh), Về chợ (1927), Người đàn bà chít khăn trắng (1930), Trước giờ tế, Mùa xuân ngắm cảnh, Cha khuyên con, Bên bờ sông Hồng mua bán gạo (1931 - 1933, Nguyễn Nam Sơn), Xuống ngựa, Hỏi thăm đường. Đánh tam cúc, Xem số (Thang Trần Phềnh), Bức thư (Tô Ngọc Vân) là những tác phẩm lụa đầu tiên được giới thiệu nước ngoài. Ngoài cái tên đề tài mang tính chất dân tộc, khêu gợi tính hiếu kỳ của người xem, lớp tranh lụa đầu tiên này đều được các tác giả nghiên cứu công phu, sáng tác theo phương pháp cổ điển về diễn hình. Tranh được vẽ nhiều về loại phong tục nhưng được nghiên cứu sâu sắc về mặt biểu hiện nghệ thuật. Kết hợp vào đó là những nhân vật Việt Nam, phần lớn là nông dân trên môi trường đồng ruộng, sinh hoạt và canh tác, trao đổi hàng hóa. Trên đất lụa dịu mềm, những con người Việt Nam được đưa vào tranh với một phong cách mới, sinh động, gần sát với hiện thực.

     Những màu nâu đậm nhạt trên y phục, mầu đen trên mái tóc, khóe mắt, quần, điểm xuyết những màu hoa lý, hoa hiên của dây lưng, dải yếm, màu xanh non của tàu chuối, bụi tre, màu vàng nổi váng bên ao bèo,... rất gần gũi với hiện thực đời sống nông thôn. Cách pha chế màu cũng không giống hắn màu nước mà có dùng thêm mực nho, son, đôi khi dùng điệp để pha chế màu theo kiểu màu thuốc cải. Dùng bút nho và cách vờn đậm nhạt, đưa nét khác hẳn lối vẽ màu nước châu Âu. Đặt màu xuống như nhuộm lấy thớ lụa, mỗi khi định vờn một màu. Mỗi tác giả đều biết khéo léo đặt những mảng màu êm dịu trên những mảng hình đã được nghiên cứu kỹ theo mẫu: sự kết hợp tinh vi những cái thực của hình với cái thần của hiện thực qua những hòa sắc dân tộc. Mảng đặt màu thì đậm đà, để lụa trắng thì thanh thoáng, trong su như khí trời. Tranh lụa những năm 30 có thế vững chãi về bố cục, đầm ấm về hòa sắc, bút pháp kín đáo và linh hoạt: đó là những đặc trưng của phong cách tạo hình dân tộc còn giữ được khá chặt chẽ.

     Nguyễn Phan Chánh ra mắt công chúng châu Âu với những bức tranh hấp dẫn và được giá nhất. Cô gái rửa rau (bác sĩ Montel mua với giá 2.500F), Em bé chơi chim (bác sĩ Morax mua, 2.000F), Thiếu nữ ngồi khâu (Dupré mua, 2.000F), Lên đồng (Pierre Massé mua, 3.500F). Quy luật giá trị đã làm nảy nở thêm nghệ thuật lụa. Từ 1932, đã có triển lãm thường xuyên tranh Việt Nam ở Pháp mà lụa chiếm vị trị chủ chốt, trong khi sơn mài còn đang còn ở thời kỳ thí nghiệm. Tô Ngọc Vân, Mai Chung Thứ, Lê Phố, Lê Thị Lựu đều có tranh lụa. Từ 1931 đến 1937, tranh lụa tiêu biểu cho hội họa Việt Nam ở các triển lãm thế giới như Paris, San - Francisco, Java, Batavia, Hồng Kông, Nhật Bản... Riêng ở Pháp, họa sĩ Việt Nam đã bày chung với họa sĩ Pháp ở các phòng triển lãm lớn hằng năm như Triển lãm của các Nghệ sĩ Pháp (Salon des Artistes Francais) và Triển lãm quốc gia (salon national). Ở các triển lãm có hàng vạn tác phẩm này, hội họa Việt Nam bước đầu làm quen với công chúng thế giới và bước đầu giới thiệu một trường nghệ thuật tạo hình hiện đại ra đời Việt Nam. Chúng ta thấy, thế giới nghệ thuật châu Âu, kể cả người chơi tranh nước Mỹ phố Wall (Wall Street), đã chú ý đến tranh lụa của họa sỹ Nguyễn Phan Chánh. Họ đi tìm luồng hàng tạo hình đang được ưa chuộng ở phương Tây. Sau giai đoạn 1928 - 1934, tranh lụa phát triển khác đi. Tô Ngọc Vân có vẽ nhiều tranh lụa hơn: Tiễn đưa, Chợ hoa ngày tết, Bên hòn Trống mái. Họa sỹ Nguyễn Phan Chánh đi vào những khuôn khổ nhỏ, vẽ nhanh hơn: Đi chợ, Cô bé rửa khoai, Chăn trâu, Xóm chài, Rước sư tử, Đi củi về... Nghệ thuật vẽ tranh lụa lúc này của các tác giả đã khác trước.

Tác phẩm Ra đồng - Hoạ sỹ Nguyễn Phan Chánh

     Họa sỹ Tô Ngọc Vân vốn ham thích màu sắc, luôn luôn muốn thay đổi bút pháp và phương hướng miêu tả. Hoạ sỹ đưa dần những màu sắc mạnh bạo, tươi rói của sơn dầu vào lụa. Bên cạnh những tranh sơn dầu chan hòa ánh sáng vàng của Chùa tháp Campuchia, biếc xanh của vịnh Hạ Long, hoạ sỹ bày mấy bức lụa đỏ rực màu hoa đào, xen lẫn màu áo màu của những em gái bán hoa, những màu tre xanh ngắt trong cảnh vợ tiễn chồng lên ngựa 1935 - 1936. Nhân vật, hình vẽ, bối cảnh vẫn còn dựa vào hiện thực lúc bấy giờ, những khuynh hướng nghệ thuật đã báo trước những thay đổi mới, thay dần hình thức dân tộc. Hoạ sỹ muốn đổi mới lối nhìn màu xỉn nâu - mà anh cho là nệ cổ - ra nơi chan hòa ánh sáng và màu sắc tươi vui. Hoạ sỹ muốn có những vẻ đẹp Việt Nam ở dạng khác đi, anh yêu thích những tìm tòi mới của phái ấn tượng, của nhóm dã thú. Màu sắc bên ngoài đã làm anh xa dần ý nghĩa chủ đề biểu hiện bằng hình tuy cái cốt diễn hình vẫn là dựa vào cân đối của hiện thực. Hoạ sỹ xa dần biểu hiện đề tài mà gần với biểu hiện cảm xúc. 

     Từ 1935 - 1936 tranh lụa bớt dần tính cách dân tộc học, họa sĩ muốn khẳng định sự phát triển cá tính độc đáo hơn, muốn đổi mới phong cách sáng tác. Màu sắc cũng biến đổi. Cách tìm đề tài biểu hiện nhân vật có chiều hướng tự do cá nhân, biểu hiện bản lĩnh độc đáo của từng tác giả, ảnh hưởng phần nào của chiều hướng đi sâu vào nghệ thuật hiện đại châu Âu, cụ thể là trường phái Paris. Trước khi khai thác và phát triển sơn mài, Nguyễn Gia Trí đã có những bức tranh lụa có nét vẽ sắc sảo, như bức Hai thiếu nữ với khung cảnh nông thôn, bụi tre nhuốm ánh sáng vàng. Một kỹ thuật vẽ lụa độc đáo theo lối nhìn tả thực của sơn dầu. Cũng thời kỳ này, Nguyễn Phan Chánh không còn giữ được những mảng màu tinh giản như trước, bố cục, nét bút đã đi vào những chi tiết rậm rạp. Cảm xúc khái quát vé tác phẩm giảm sút. Họa sĩ vẫn giữ những màu sắc và nét bút như cũ. Sau tranh lụa Cha khuyên con, sơn dầu Cám dỗ Phật (1934).

     Chân dung phụ nữ (1940), Nguyễn Nam Sơn hầu như thôi hắn bố cục lớn. Một thế hệ mới tiếp theo cũng vẽ lụa nhiều: Trần Bình Lộc, Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Ánh, Nguyễn Khang. Mỗi người đều có cách vẽ riêng biệt của mình. Nguyễn Tường Lân phóng khoáng trong những hòa sắc đầm ấm đỏ nâu, xanh lục, chỗ nhòe, chỗ đậm (chân dung Cô Nguyên, phong cảnh Tre nước trong làng 1935 - 1936, Trần Binh Lộc tô điểm thêm duyên dáng cho nhân vật của minh (Liên ngồi hái cúc). Nguyễn Đỗ Cung có suy nghĩ sắc cạnh hơn trong tìm kiếm của minh.

     Từ những tranh vẽ Ông đồ viết chữ ngày Tết đến chân dung Em bé trai đội nón, đến những bố cục trên lụa thời kỳ này ở Huế, họa sĩ đã trải qua nhiều phong cách biểu hiện. Thế hệ tiếp theo hầu như chuyên vẽ lụa: Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tiến Chung giữ vững phong cách tả thực với những nền nếp dân tộc. Lê Yên, Nguyễn Đức Nùng, U Văn An, Nguyễn Văn Quế có những khả năng đa dạng về nghệ thuật lụa.

     Dòng nghệ thuật vẽ lụa truyền thống có cơ để phát triển đúng đắn hơn, có ý thức hơn về bước đường nghệ thuật của mình, trong lòng cuộc cách mạng lớn của đất nước. Kỷ niệm Cách mạng tháng Tám lần đầu, tháng 8-1946, Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc lần đầu tiên trình bày một sắc thái mới: những hình ảnh em bé tâm dầu, chị nông dân xuống đồng cấy... trên tranh lụa bên cạnh những ký họa về cảnh dời 1945, về cảnh chiếm Bắc Bộ phủ. Cho đến thời kỳ về sống ở nông thôn cùng với hoạt động kháng chiến chống Pháp, tranh lụa mới thay đổi hẳn được môi trường và đối tượng miêu tả. Mỗi khu có tổ chức xưởng vẽ riêng của minh. Mỗi chuyến đi về ở thực tế đều đem được về những ký họa thích hợp để vẽ lụa. Khuôn khổ có nhỏ hơn, những đề tài và bố cục đã thay đổi hẳn: những anh thanh niên du kích, hành quân, những chị phụ nữ đeo balô đi công tác, nhân dân tản cư trong hang, tình quân dân nhất trí. Ở chiến trường Nam Bộ, Diệp Minh Châu đã vẽ hình ảnh Bác Hồ với ba em nhỏ trên lụa bằng máu để gửi tặng Bác. Anh còn có bức lụa Thuyền du kích dưới hàng tràm Đồng Tháp Mười.

     Từ 1948 trở đi, sau cuộc Đại hội Văn nghệ toàn quốc ở Đào Dã, tranh lụa được vẽ nhiều hơn và chất lượng vượt hắn những năm đầu kháng chiến. Trước còn vẽ nhiều mặt phẳng, thiên về hình và mảng màu trang trí, nét êm dịu. Từ đây, tranh lụa dùng nhiều đậm nhạt, sáng tối, màu sắc phong phú, mạnh bạo hơn. Cái đẹp của lụa tơ tằm đã thay thế hẳn lụa tơ dứa trước kia. Nền lụa mộc dịu dàng chuyển từ trắng ngà đến vàng sối, vàng đũi. Màu vàng, màu ngà của lụa điểm thêm mấu nối của sợi đũi càng làm mềm mại thêm nét vẽ, tăng thêm giá trị của chất liệu tạo hình. Chất lụa dệt tay vùng quê càng thích hợp với hình ảnh cuộc sống gian khổ trong thời kỳ kháng chiến ở hang, ở núi rừng. Tranh lụa đi dần vào những chủ đề lớn về chiến tranh nhân dân, về tình quân dân.

     Từ những năm 30, qua 9 năm kháng chiến chống Pháp, tranh lụa đã phát triển từ thể loại phong tục, sinh hoạt tiến lên những đề tài cách mạng, kháng chiến. Từ hình thức dân tộc, nghệ thuật đi sâu và tả thực, gắn sát hơn với cuộc sống chiến đấu nhiều màu vẻ. Từ nghệ thuật dân tộc, tranh lụa mang tính cách xã hội. Tuy nhiên, tính khái quát và bao trùm tác phẩm chưa được nhuần nhuyễn như loại phong tục trước kia.

     Trải qua năm lần Triển lãm toàn quốc 1954 đến 1963, tranh lụa không phát triển kịp so với sơn dầu, sơn mài và có khuynh hướng thiên về thể loại nghiên cứu hoặc chỉ dùng vào việc xuất khẩu. Vẫn một số tác giả cũ chuyên về lụa: Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Tiến Chung, Trần Đông Dương, Ngô Minh Cầu, Phan Thông, Lê Vinh... không có tim tòi xuất sắc ngoài những đề tài mới, kịp thời. Tranh lụa kém bến vững, khó bảo quản cũng là một lý do để các hoạ sĩ vẽ lụa ít bỏ công vào sáng tác. Ít khuyến khích, đầu tư vốn vào thể loại này cũng lại là một lý do để tranh lụa chậm phát triển, tiến lên. Tuy nhiên, từ những năm 60, thế hệ trẻ cũng không kém phần hăng say chuyên môn hóa về lụa, ta phải kế đến sáng tác gần đây của Nguyễn Thụ về Khu Tư, về Tây Bắc, của Thanh Ngọc về miền núi. Những bài thi ra trường của Thế Minh, Vi Kiến Minh, Dương Ánh, Mai Long về những đề tài chống Mỹ, cứu nước, về chiến đấu hay sản xuất.

     Những năm gần đây, thời kỳ chống Mỹ cứu nước, nhiều tác giả nữ xuất hiện với nghệ thuật vẽ lụa. Triển lãm tranh của các nữ họa sĩ 1973 là một đóng góp vào sự phát triển của tranh lụa. Phan Thị Hà với hai bức Giã gạo nuôi quânKiếm tra vải. Minh Phương với Tuốt lúa ngày mùaThanh niên miền núi. Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị Thùy, Hoàng Minh Hằng đều có tác phẩm tốt. Nghệ thuật lụa tự thân có những đặc tính thích hợp với phụ nữ. Tuy nhiên, phát triển những thuộc tính của nghệ thuật, đưa tranh lụa vào quỹ đạo có chiến đấu tính, chuyển biến khả năng của lụa lên những thuộc tính mới lại đòi hỏi sức sáng tạo cao và liên tục của trí tuệ và tình cảm.

     Nguyễn Thụ có nhiều thể nghiệm về tranh lụa. Gần đây, anh vẽ được nhiều bức giá trị: Cấy lúa ở miền núi, Hành quân, Bà mẹ dệt vải. Bút pháp hoạt bát, mảng màu đằm, mạnh, có sức nặng tạo hình. Quang Thọ, Giáng Hương đưa lụa vào để tài chiến đấu với những khung cảnh hùng tráng của chiến trường, nhưng tính nghệ thuật cao chưa đạt được bao nhiêu. Từ những năm 70, Nguyễn Phan Chánh vẽ lụa thật thoải mái. Lão họa sĩ vẫn giữ được vai trò "tiên chỉ" của nghệ thuật lụa. Một loạt tác phẩm trữ tình, về cái đẹp của cơ thể người phụ nữ, vào những năm họa sĩ 80 tuổi, hình như đã giải phóng được một cách nhìn gò bó vì những tình tiết vụn vặt, “kể chuyện" của để tài. Từ Trăng tỏ Trăng lu (1970) đến Tiên Dung (1972), Kiều tắm, Nguyễn Phan Chánh lại chuyển đến một thế giới ước mơ của mình về cái đẹp. Nhân vật toát lên vẻ đẹp của thuở bình minh chân chất, thô sơ, trong sạch. Cái bạo dạn về cách trình bày đề tài và nhân vật thoải mái tự do như vậy chỉ có thể có ở tuổi 80, lúc nhìn sự vật chỉ là ước mơ, ước mơ có một cái đẹp không câu chấp, không bị ràng buộc bộ lễ nghi và công thức xã hội.

Hoạ sỹ Nguyễn Phan Chánh đang vẽ tranh lụa

     Thể loại tranh lụa đã đóng góp phần xứng đáng vào nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Tranh lụa đã phát triển được những vốn cổ truyền của hội họa dân gian. Dựa vào cốt cách và tinh thần dân tộc, tranh lụa đã tiếp thu những kỹ pháp của các nước phương Đông, cũng như kỹ thuật diễn hình tả thực của châu Âu. Từ những đề tài cổ truyền về chân dung, chim hoa hay phong tục, tranh lụa đã phát triển lên diễn tả những đề tài về sản xuất và chiến đấu, đến tính cách và hoạt động của những tầng lớp người trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc và xã hội chủ nghĩa. Nâng cao dạng phát triển mới của nghệ thuật tranh lụa thì chúng ta chưa làm được bao nhiêu. Cái mạnh của tranh lụa cũng như của hội họa Việt Nam là cái mạnh của con mắt tươi trẻ, cách nhìn cuộc sống mạnh dạn, ít bị câu thúc vì những gò bó kỹ thuật, họa sĩ vẽ lụa biết nhìn cái mới và tiếp thu những sáng kiến khoa học, lành mạnh của dân gian cũng như những thành tựu nghệ thuật của thế giới.

     Năm 1965, nhân giới thiệu Nguyễn Phan Chánh, nhà báo Georges Boudarel còn viết về tranh lụa Việt Nam: “...Nghệ thuật này giản dị và kín đáo, hình như lại có vẻ quá trang trọng nữa. Giữa cái rực rỡ đầy kiêu hãnh của sơn mài và sự hài hòa nặng nề của sơn dầu, tranh lụa có một sắc thái quê hương thanh nhã, một điệu hát ru em, một giấc mơ trong tâm hồn những nông dân bình dị và những em nhỏ...”.

Sức vóc tạo hình của chúng ta rất trẻ. Biết chăm bón, bồi dưỡng, tranh lụa Việt Nam cũng nảy nở như nhiều bộ môn nghệ thuật khác, góp phần vào vốn nghệ thuật hiện đại của dân tộc.

#NguyễnVănTỵ