TRANH CỔ VIỆT NAM - TRANH TẾT

 

      Ngày xưa nước ta có hội họa không? Những tranh bảo là của các cụ để lại, chúng ta ít được xem quá. Một vài nhà còn giữ một vài bức truyền thần, một vài tấm tranh hoa điểu, hay sơn thủy. Trừ những bức truyền thần rất hiếm, đại để những tranh đó tả phong cảnh Tầu, nhân vật Tầu, không một giấu vết gì giang sơn nước Nam cả, chứ đừng nói đến tính cách đặc biệt Việt Nam nữa. Một sản phẩm giá trị ấy chỉ đủ cho ta tin là đã phỏng theo những họa phẩm mỹ thuật Tầu. Phỏng theo một cách nô lệ chứ không phải là chịu ảnh hưởng. Ảnh hưởng văn hóa Tầu sang ta ở Mỹ thuật Việt Nam cổ, đã giúp sự sáng tạo một Kiến trúc đặc biệt Việt Nam, hùng vĩ mà không nặng nề. Khi trông những tòa Kiến trúc như chùa Keo hay đình làng Đình Bảng, người theo hội họa ngày nay không khỏi tiếc, buồn. Nếu các cụ khi xưa để ý đến hội họa! Làm gì chả dành lại cho họ một gia sản họa phẩm quý giá, làm gì ngày nay, họ, người Việt Nam, phải băn khoăn đi tìm một văn bản Việt Nam trong mỹ thuật!
       Sự lãnh đạm của các cụ với hội họa, chúng ta có nên đổ lỗi cho óc chuộng khoa cử khi xưa, khinh miệt những cái gì không liền với khoa cử? Thực thì cái người trước kia kêu “thợ vẽ” mới độ mươi năm nay được người ta gọi là “họa sĩ”. Thợ vẽ ngày xưa, nếu có, đã làm một nghề mà các cụ coi chẳng vinh hạnh gì. Vì tư tưởng ấy, hội họa Việt Nam không có một nền nếp nào, một căn bản nào chắc chắn. Và cũng vì tư tưởng ấy, khoa lịch sử Việt Nam thiếu mất những vật liệu, những chứng cớ hiển nhiên diễn tả bằng sắc với hình. Ai đã chú ý đến gian phòng Triển lãm của trường Bác Cổ Viễn Đông trong kỳ hội chợ vừa rồi, trưng bầy những di tích lịch sử thành thị nhân vật Việt Nam thuộc về Cận đại đều phải thừa nhận rằng hầu hết tài liệu về tranh dựa theo những bức họa của người ngoại quốc về thời ấy. Những bức họa đầu Ngô mình Sở nhiều khi đến buồn cười! Nhưng không dùng những tranh ấy thì lấy tranh gì, ở đâu? Ít ra nó cũng có ích lợi cho ta hội ý một phần mười về sự thực, nếu không hơn thế.
       Đem tính sổ tất cả cái gia tài về cách diễn tả bằng sắc với hình mà các cụ để lại, chúng ta thấy mỏng mảnh quá, nghèo quá! Đáng kể họa chăng chỉ còn tranh thờ vẽ Quan Lớn, Chầu Bà, Ngũ Hổ, đáng kể vì đã hình dung những vị Thánh Thần bằng người Annam y phục Annam và hơn thế một chút, những tranh in nhiều bản gọi là Tranh Tết mà ta thấy bán ở nhà quê kẻ chợ về ngày gần Tết. Tranh Tết gồm có những tranh để dán cửa như tranh ông Tướng, tranh hai ông Tiến Tài, Tiến Lộc; và những tranh để dán lên tường. Loại này có thể phân ra:
      A) Tranh súc vật như “con gà”, “con lợn”, cóc giậy học”, “cưới chuột”…
      B) Tranh gương luân lý như “Vua Thuấn cầy voi cảm động đến Trời”, cùng tranh các ông Tăng Tử, Diễm Tử, Vương Tường đi kiếm củi, lấy sữa hươu, úp cá để về nuôi mẹ…
      C) Tranh phong tục như “Họp chợ”, “Làm ruộng”, “Đánh sóc đĩa”, “Tổ tôm ngày tết”, “Leo dừa”, “Đánh ghen”, v.v…
      Tổ tôm ngày Tết (tranh Đông Hồ); Thời bình mở hội Xuân/ Nô nức quyết xa gần/ Nhạc dâng ca trong điện/ Trò thưởng vật ngoài sân.
      Toàn thể tranh in đều một lối, khắc vào bản gỗ, nét mực và các mầu, dập lên giấy nền đỏ hay vàng. Mấy năm gần đây, giấy nhật trình trắng là thứ nền thông dụng, và nhiều khi cho mau việc, người ta chỉ in một bản nét mực họa hình, còn mầu sắc đều bôi bằng tay cho chóng. Ai đầu tiên đã nghĩ sinh ra tranh Tết? Ai đầu tiên đã vẽ tranh Tết và tự bao giờ? Chúng tôi không biết. Song một điều chúng tôi chắc chắn mà phỏng đoán là những tác phẩm ấy do những người không phải tay nghề “họa sĩ trong một phút” cao hứng mà phác ra. Tất cả những nhân vật đều hình dung một cách ngây thơ, thô mộc, không có óc nhận xét, tuy nhiều khi giáng giấp cũng linh hoạt. Phần lớn thì mặt người nào cũng giống người nào, trẻ con, đàn bà hay đàn ông; và tờ tranh nào cũng có ngần ấy mầu dùng nguyên chất không bao giờ đổi. Ở những tranh loại luân lý và phong tục thường kèm những giòng chữ nôm dẫn giải ngụ ý của tác giả. Ví dụ trong tranh “Ngày xuân đánh tổ tôm” họa sĩ đề mấy câu nói: được bài hay thua đều có vận đỏ đen, cao tay cũng chẳng ăn gì; trong tranh “Đánh ghen” có những lời: thôi thôi bớt giận làm lành, xấu chàng hổ ai… 

Tác phẩm Đánh ghen - Tranh dân gian Đông Hồ

      Xuy đó ta nhận thấy rằng, trong tranh Tết, nghệ thuật không có phần mấy. Dụng tâm tác giả là ý tứ phô bầy, ở cái óc tinh nghịch, hóm hỉnh, châm biếm, diễu cợt đến thô một cách suồng sã. Song cũng nhờ thế mà ở tranh Tết cái ngây thơ lắm khi dễ yêu, sự vụng về thường thường cảm động, và một ánh duyên không mầu mỡ phủ lên. Chúng ta ai mà quên được cái chị mặc váy hớ hênh trong tranh “Leo dừa” chèo lên đỉnh cây dừa hái quả; Cái đàn chuột kéo nhau đi đút lót mèo để cầu yên; Cái anh chàng trần như rộng, quăng áo ra đặt cửa trên tranh “Sóc đĩa”; cái chị vợ búi tóc ngược trong tranh “Đánh ghen” săm săm nhẩy đến chỗ anh chồng đang ôm một cô không yếm, một tay chị hoa lên còn một tay lăm lăm cầm cái kéo há miệng sẵn. Để cắt gì? Tùy chúng ta hiểu sao cũng được…
      Những tờ tranh ấy đều một giáng một sắc, một nguyên tố, không là kết quả của sự tìm tòi nghệ thuật có liên tiếp hay biến trạng theo thời đại, không chỉ dẫn một phương châm nghệ thuật nào, vậy không có lợi cho nghệ thuật Hội Họa ngày nay.
      Cảm tình đằm thắm của chúng ta với những tờ tranh Tết một phần lớn có lẽ do sự ta nhớ tiếc thời đã qua mà trong những tranh đó ta cảm thấy hương vị đưa lại, cái thời chúng ta còn để chỏm, ngày Tết mặc cái áo bao giờ cũng quá giài rộng, túm nhau bên tường mà âu yếm những tranh Tết rực rỡ dán lên.
      Song dẫu sao giá trị tranh Tết ngày nay vẫn còn, không ở phạm vi nghệ thuật, mà ở cái vẻ Tết nó mang đến, mạnh hơn cả bánh chưng xanh và ngang với câu đối đỏ… 

#TôNgọcVân