Cánh chim đầu đàn của Mỹ thuật cận hiện đại Việt Nam

     Mỹ thuật cổ Việt Nam vốn phát triển “từ nhiên như nhiên” trong lòng xã hội quân chủ với nền kinh tế tiểu nông. Cho đến cuối thế kỷ XIX với sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân Pháp, người Việt tiếp xúc nhiều hơn với văn hóa phương Tây, bị cuốn dần vào một trào lưu mới, trong đó ở lĩnh vực mỹ thuật, có sự chuyến biến khá mạnh mẽ. Bước chuyển khởi đầu này có sự đóng góp lớn của họa sĩ Nam Sơn (1890 - 1973).

     Họa sỹ Nam Sơn, quê ở Vĩnh Yên, sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, vốn dòng gia thế, tên khai sinh là Nguyễn Vạn Thọ. Khi vào đời, ông lấy hiệu Nam Sơn, hàm ý vững vàng và trường thọ. Thuở nhỏ, ông được các nhà nho Phạm Như Bình, Nguyễn Sĩ Đức dạy chữ, dạy vẽ và dẫn đi thăm các đình, đền, chùa với sự giảng dạy cặn kẽ về văn hóa và đạo lý, do đó sớm có lòng say mê nghệ thuật dân tộc. Ông lại tìm sách và tranh của Trung Quốc, Nhật Bản để tìm hiểu hội họa phương Đông. Nhờ có cái nền văn hóa đó, khi được tiếp xúc với hội họa phương Tây, ông đã biết tiếp thu cái hay để vững bước vào nền mỹ thuật mới theo phong cách dân tộc.

Hoạ sỹ Nam Sơn năm 1919

     Ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chính quyền Pháp đã mở một số trường mỹ nghệ ở cả trong Nam và ngoài Bắc, nhưng chỉ để đào tạo nghệ nhân và qua báo chí đương thời, những người được đào tạo ra thường hay chạy theo mẫu nước ngoài! Nam Sơn nghĩ khác. Đầu thập niên 20, thế kỷ XX, họa sĩ Victor Tardieu (1870 - 1937) đã sang Hà Nội tìm hiếu nghệ thuật Việt Nam. Hai ông quen biết nhau và sớm trở thành đôi bạn vong niên. Nam Sơn hướng dẫn cho V.Tardieu tìm hiểu nghệ thuật truyền thống dân tộc Việt Nam. Ngược lại, ông được V.Tardieu hướng dẫn vẽ rất cẩn thận theo lối hàn lâm. Do đó, ngoài những tranh minh họa sách báo, năm 1923, ông đã tham gia Triển lãm Đấu xảo Hà Nội với bốn bức tranh: Nhà nho xứ Bắc, Ông già Kim Liên, Cô gái Bắc kỳ, Tĩnh vật được dư luận đánh giá là những tranh sơn dầu đầu tiên ở Việt Nam và tác giả là người vẽ giỏi. Nhưng Nam Sơn muốn sớm có một đội ngũ họa sĩ Việt Nam để cùng tạo ra một nền mỹ thuật hiện đại của dân tộc đủ sức hòa nhập được với thế giới. Ông đã viết một bản Đề cương Mỹ thuật Việt Nam ngắn gọn mà hàm súc, vạch ra cụ thể phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch và cơ cấu tổ chức một trường Mỹ thuật (ở cấp đại học) để thuyết phục V. Tardieu vận động chính quyền thuộc địa.

Hoạ sỹ Nam Sơn soạn thảo đề án thành lập trường Mỹ thuật Đông Dương năm 1923

     Tháng 10-1924, Nghị định thành lập Trường TMĐT ra đời. Nam Sơn cùng V.Tardieu sang Paris để chuẩn bị việc khai giảng trường tài liệu, tuyển nhân sự, mua sắm họa cụ...). Tại Pháp, Nam Sơn đã theo học hai trường: Trường Cao đẳng Mỹ thuật Paris (buổi sáng), Trường nghệ thuật trang trí Quốc gia (buổi chiều) và học điêu khắc (buổi tối) cùng các họa sĩ Từ Bi Hồng (Trung Quốc) và Foujita (Nhật Bản). Cuối năm 1925, họa sĩ V.Tardieu bị bệnh phải ở lại Paris nên Nam Sơn trở về Hà Nội cùng họa sĩ Inguimberty và đã tổ chức tuyển sinh khóa đầu tiên của trường với hơn 270 thí sinh toàn Đông Dương, mở đầu cho sự ra đời của nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam.

Tờ trình thành lập trường Mỹ thuật Đông Dương của giám đốc Nha học chính Đông Dương Blanchard de la Brosse 

     Cuốn Paris - Hà Nội - Sài Gòn: Cuộc phiêu lưu của hội họa hiện đại Việt Nam do Nxb Những bảo tàng Paris (Paris) xuất bản năm 1998 đã xác nhận: "Qua những cuộc trao đổi giữa họ (V.Tardieu và Nam Sơn), đã nảy ra ý kiến thành lập một trường Mỹ thuật ở Hà Nội. Nam Sơn thuyết phục V.Tardieu tiến hành những vận động cần thiết để có thể khai giảng và điều hành nhà trường... Chính thức được thành lập do một Nghị định thư của Toàn quyền Merlin, trường này (MTĐD), nói cho đúng hơn, là kết quả của tinh bạn kỳ lạ giữa hai người (V.Tardieu và Nam Sơn)”. Vị thế của ông đã được xác nhận rõ ràng trong cuốn Các trường Mỹ thuật Đông Dương do Toàn quyền Đông Dương xuất bản ở Hà Nội năm 1937: "Ông Nam Sơn là giáo sư chuyên ngành bậc hai, là một trong hai người sáng lập Trường MTĐD, dạy hinh họa và trang trí”. Ông dạy từ khoá đầu tiên đến khóa cuối cùng, tất cả 18 khóa, đã tham gia đào tạo hơn 150 họa sĩ, nhà điêu khắc, một số người ngay sau khi tốt nghiệp đã có những tác phẩm làm thế giới hội họa phương Tây thán phục, nhiều người ngày nay nhận giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước, Nam Sơn đã viết cuốn Hội họa Trung hoa (1930) như một Tuyên ngôn nghe thuật phương Đông", và tuy phải dạy theo phương pháp hàn làm châu Âu nhưng ông vẫn dẫn sinh viên đi thăm các di tích văn hóa - nghệ thuật để học vốn cổ và lắng hồn dân tộc. Ông rất tâm đắc lới nhà phát minh khoa học Y Ottaviano Petrucci: "Đã đến lúc nến văn minh chung của nhân loại muốn có bước đi tiếp trên quả đất, cần phải biết hòa nhập, thu thập những dị - đồng của cổ đại" và coi như một phương châm để đào tạo và sáng tác.

     Ngay từ khi nảy sinh ước vọng có một trường mỹ thuật ở Việt Nam, trong Đề cương Mỹ thuật Việt Nam, ông đã tiên lượng: “Độ mươi, hai, ba mươi năm, quốc thuật của nước Nam sẽ thành”. Và ông xác định trách nhiệm của minh ở giảng dạy và sáng tác. Ông sống ở Hà Nội nhưng vẫn gắn bó chặt chẽ với quê nhà Vĩnh Yên và quê vợ Lai Xá (Hà Tây) đồng thời trực tiếp chịu ảnh hưởng của các nhà nho giàu lòng yêu nước. Hoàn cảnh đó khiến cả cuộc sống sáng tạo nghệ thuật của ông luôn lấy cảnh vật, con người nông thôn làm đối tượng sáng tác của minh. Tranh của ông mang màu sắc quen thuộc của tự nhiên, hài hòa, ấm cúng. Nhiều người ngắm tranh ông như nhận ra người thân của mình. Những nhân vật rất thực, rất Việt Nam, được dựng hình theo lối phương Đông. Bức chân dung có thể được dùng làm tranh thờ, với hình thức uy nghi trang trọng nhưng vẫn thân quen, gần gũi. Trên tranh chân dung của ông, sự diễn hình luôn tuân thủ phương pháp hàn lâm với sự cân đối về giải phẫu cơ thể hợp với ánh sáng tạo mảng sáng tối, gây độ nổi về khối, với quan hệ xa gần trong không gian, bố cục chặt chẽ, hài hòa... Ngay từ khi mới làm quen với nghệ thuật phương Tây, bằng những thế mạnh của sơn dầu, ông đã tái hiện cụ Sĩ Đức, một chí sĩ Đông kinh Nghĩa thục khả kính, quắc thước, đầy tâm huyết, đôi mắt rực sáng, đau đáu nhắc nhở người đời cái nhục mất nước mà ông đang vấn khăn trắng để tang, và bàn tay chống cằm suy nghĩ lao lung với nội tâm của sĩ phu Bắc Hà. Chân dung bán thân lại nhìn hơi nghiêng vào má bên phải, không theo lối tranh thờ truyền thống, song lại tạo sự cân đối tự nhiên. Chính tác phẩm này đã khiến V.Tardieu trọng nể vào tài năng của ông, tin tưởng rằng người Việt Nam có thể vẽ được sơn dầu như  người Âu châu và quyết tâm vận động thành lập trường Mỹ thuật ở Hà Nội. Đến bức chân dung thân mẫu, ông đã có quá trình day vẽ và vẽ tranh khá thuần thục, để vẫn là sơn dầu, song đã quay lại lối bố cục truyền thống kiểu tranh thờ: vẽ toàn thân, ngồi trang trọng, nhìn chính diện, cân đối hai nửa, trang phục theo lối một mệnh phụ phu nhân, tư thế đàng hoàng trong phong cách Á Đông, khuôn mặt đoan trang, đôn hậu. Nam Sơn đã diễn tả được tinh thần của người mẹ Việt.

     Tung hoành trên chất liệu mới để khẳng định sự hòa nhập với hội họa hàn lâm phương Tây, song đi lên từ nghệ thuật truyền thống và mở rộng ra với nghệ thuật phương Đông vốn có thế mạnh ở tranh lụa, ông đã tập trung khá nhiều cho thể loại này. Từ bức Về chợ (lụa) - bày trong triển lãm tại trường MTĐD năm 1927 đến bức Chân dung phụ nữ(1940), ông hầu như chỉ vẽ theo những đề tài sinh hoạt dân tộc gần gũi.

     Tranh lụa của ông lúc này cùng với các tác phẩm của Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân... đã làm nên phần nổi của hội họa Việt Nam đương thời, là những sản phẩm đầu tiên của MTĐD trình ra thế giới và làm giới mỹ thuật châu Âu cảm phục. Năm 1935, Bộ Giáo dục và Mỹ thuật Pháp mua bức tranh lụa Thiếu nữ nông thôn của ông.

Tác phẩm Thiếu nữ nông thông - Hoạ sỹ Nam Sơn

     Phổ biến trong tranh phương Đông xưa là tranh thủy mặc, trong đó tiêu biểu là tranh vẽ mực nho. Ở thể loại này, ngay từ những ngày đầu học vẽ, Nam Sơn đã làm quen cả với việc vẽ bằng bút lông và vẽ trực tiếp bằng đầu ngón tay (chỉ đầu họa).

     Chắc hẳn khi đã chính thức hoạt động trên lĩnh vực mỹ thuật, thế mạnh này được ông phát huy và nó cũng đưa ông lên một đỉnh cao vinh quang nghề nghiệp: Bức tranh mực nho ông để tên Hán Việt là Hồng Hà hữu ngạn mãi mại mễ xứ, về sau gọi là Chợ gạo bên sông Hồng, sau khi bày ở triển lãm Paris năm 1930 của Hội các họa sĩ Pháp, đã được Chính phủ Pháp mua bày tại Bảo tàng Nghệ thuật quốc gia. Dư luận báo chí xác nhận “nét bút đan thanh của ông ngay đến nhiều tay thầy vẽ người Pháp cũng phải công nhận là tài tình" và đánh giá đây là một vẻ vang lớn của ông.

     Với chất liệu khắc gỗ, ông đã có tác phẩm Cò trắng cá vàng (1929) được giải thưởng ở triển lãm thủ đô Rome (Italia) năm 1932; với chất liệu phấn màu (pastel), ông cũng là người đi đầu với tác phẩm Chân dung cụ Sùng Am Tường (1927).

     Tài năng của ông, theo Tô Ngọc Vân, nổi bật lên còn là ở vẽ màu nước - một chất liệu được ông sử dụng đến điêu luyện! Ở ông, màu nước còn kết hợp với cả mực nho, bằng kinh nghiệm tốt nhất, ông đã vẽ trên giấy Canson. Năm 1943, sau chuyến đưa các tác phẩm hội họa Việt Nam đi Nhật Bản triển lãm, rồi sau đó ông bày chung Hà Nội cùng với Nguyễn Văn Tỵ, Lương Xuân Nhị, Nam Sơn giới thiệu 30 bức màu nước (và 6 bức sơn dầu). Sau này, riêng cảnh đường phố Hà Nội trong kháng chiến (1947), ông cũng có hơn 10 bức. Một số họa sĩ khóa kháng chiến (Lưu Công Nhân), sau hòa bình, cũng tìm đến ông học hỏi về vẽ màu nước.

     Năm 1998, tại triển lãm Mùa xuân Việt Nam Ở Paris do Bộ Văn hoá - Thông tin và Tòa thị chính Paris tổ chức, có ba tác phẩm của ông. Tiếp đó, cuốn Voyager Magazine (xuất bản tại Paris 1998) giới thiệu cuộc triển lãm này đã tuyển in bức Chân dung người nông dân (1940) của Nam Sơn với lời bình ghi ngay bên tác phẩm: "Chỉ cho tới ngày nay, sau bao nhiêu năm bị lãng quên, các họa sĩ Việt Nam đã buộc người ta phải kính trọng".

     Sau hơn nửa thế kỷ sáng tác và giảng dạy, họa sĩ Nam Sơn đã cùng đồng nghiệp đạt được cái đích “tạo nên một nền mỹ thuật cho quốc gia Việt Nam” như trong bản Đề cương Mỹ thuật Việt Nam của ông hồi đầu thế kỷ XX. Ngoài công lao trong quá trình chuẩn bị cho sự ra đời Trường MTĐD, là Giáo sư chuyên ngành bậc hai dạy hình học và trang trí do chính quyền Đông Dương Pháp công nhận, họa sĩ Nam Sơn còn có tác phẩm được tuyển chọn đưa vào Bảo tàng Nghệ thuật Quốc gia Pháp. Những mốc son ấy đều mang tính khai sơn phá thạch cho một sự nghiệp lớn.

     Từ uy tín nghề nghiệp trong giảng dạy, hoạt động văn hóa và đạo đức, năm 1946, họa sĩ Nam Sơn được Bộ Quốc gia Giáo dục Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hoà mởi vào Hội đồng cố vấn Học viện Đông phương bác cổ. Năm 1957, khi thành lập Hội MTVN, ông đã 67 tuổi, được bầu vào Ban chấp hành và ở đó 16 năm cho đến khi qua đời (ngày 26-1-1973).

     Năm 1934, cụ Nghiễn Đào, họa sĩ chỉ đầu họa, đã tăng Nam Sơn bức tranh Thạch lan, ngầm ví ông như hoa lan đẹp trên đá cằn, với lời đề tặng: Cổ kim hội họa phi tiểu đạo dã, nhi Âu mỹ thuật Nam Sơn khả xưng diệu thủ (Xưa nay hội họa không phải là cái đạo nhỏ, với mỹ thuật Âu Tây, Nam Sơn thật xứng đáng là diệu thủ).

#ChuQuangTrứ